tin tức sự kiện tin tức sự kiện

Đại tá Trần Hiệu, Thủ trưởng đầu tiên của Cơ quan Tình báo Chiến lược
Ngày đăng 08/03/2011 | 00:00  | View count: 2116

 

Đại tá Trần Hiệu (30.4.1914-1995), từng giữ các chức vụ : Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Quốc phòng Tổng Chỉ huy, Cục trưởng Cục Tình bảo Bộ Tổng Chí huy Quân đội Quốc gia Việt Nam, Cục trưởng Cục Tình báo Chiến lược.


Ngoài ra ông còn giữ các chức vụ : Phó Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ, Phó Giám đốc Nha Công an Việt Nam kiêm Trưởng ty Tình báo Nha Công an, Phó Viện trưởng kiêm Bí Thư Đảng ủy Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao.

Ông được phong quân hàm Đại tá năm 1958.


Trần Hiệu sinh ngày 30-4-1914 tại xóm Gianh - làng Phúc Lâm - huyện Mỹ Đức - tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) trong một gia đình trung nông lớp trên theo Nho học và có truyền thống yêu nước. Năm 1926, mới 12 tuổi, ông đã tích cực tham gia lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh tổ chức ở trường làng. Tháng 6-1929, khi là học sinh lớp nhì đệ nhất cấp ở Trường Bờ Sông - Hà Nội, ông được kết nạp vào tổ chức thanh niên cộng sản. Học hết đệ nhất cấp, ông đi học nghề thợ nguội ở xưởng Tân Thành tại phố Hàng Nón-Hà Nội. Mùa hè năm 1935 ông ra Hải Phòng học nghề sửa chữa xe ô-tô ở trường kỹ nghệ thực hành. Tại đây, ông tham gia làm báo bí mật với đồng chí Nguyễn Quyết (sau là Đại tướng, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước), Vũ Đức Toa… được 10 tháng thì bị nhà trường phát hiện, đuổi học.

Trở về Hà Nội, Trần Hiệu tham gia hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ, Hội ái hữu và Đoàn thanh niên dân chủ. Năm 1937 ông được giao phụ trách Phòng quản trị tờ báo Thế giới, tiếng nói của Đoàn thanh niên dân chủ. Năm 1938 ông được đồng chí Trường Chinh, Đào Duy Kỳ giới thiệu vào Đảng cộng sản Đông Dương, sinh hoạt trong chi bộ công khai ở Hà Nội.

Tháng 9-1939 Trần Hiệu bị thực dân Pháp bắt, kết án tù và giam ở nhà lao Sơn La. Tháng 9-1940, ông bị đưa về giam ở xà lim của Sở mật thám Hà Nội. Đầu năm 1941, thực dân Pháp đày ông lên nhà lao Bắc Mê nằm tại một vùng heo hút, ma thiêng nước độc ở tỉnh Hà Giang. Tại đây, ông và các đồng chí chẳng những không nhụt chí trước chế độ giam giữ tàn ác và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, mà còn mau chóng biến lao tù thực dân thành trường học cách mạng, chủ động lãnh đạo tù nhân đấu tranh chống khủng bố, đòi cải thiện đời sống. Vào các dịp lễ tết, chi bộ còn tổ chức biểu diễn văn nghệ rất sôi nổi. Hoạt động của chi bộ đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng ở các địa bàn lân cận, góp phần biến một số làng bản trở thành cơ sở hoạt động của Đảng bộ địa phương trong những năm 1940-1945. Vì thế thực dân Pháp bèn đưa ông và một số đồng chí về nhà lao Sơn La. Tại đây, ông đã tham gia tuyệt thực phản đối chế độ thực dân.

Giữa tháng 6-1941, ông cùng 7 đảng viên cộng sản và 3 chính trị phạm khác bị đẩy lên tàu hỏa, đưa vào Sài Gòn rồi xuống tàu thủy, đem đi đày ở đảo Ma-đa-ga-xca thuộc châu Phi.

Tại trại tù Ma-đa-ga-xca, Trần Hiệu và các đồng chí của ông, tiêu biểu là Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam, sau là Thứ trưởng Bộ Nội vụ), Tô Gĩ (tức Lê Giản, sau là Phó chánh án TAND tối cao), Hoàng Đình Giong (tức Vũ Đức, sau là Khu trưởng khu 9, Khu 6), Nguyễn Văn Ngọc (sau là Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ), Nguyễn Văn Phòng (tức Nguyễn Văn Minh, sau là Chánh án Tòa dân sự-TAND tối cao), Đoàn Ngọc Rê (tức Cao Dương Tiệp, Dương Công Hoạt, sau là Ủy viên Ban dân tộc Trung ương kiêm Phó chủ nhiệm Ủy ban dân tộc của Chính phủ) ra sức tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, quyết không để mình chết dần chết mòn như ý đồ hiểm độc của thực dân Pháp.

Năm 1942, sau khi quân Anh đánh chiếm Ma-đa-ga-xca từ tay lực lượng của chính phủ bù nhìn Vi-si rồi giao lại cho lực lượng của Đờ Gôn kiểm soát, các tù nhân Việt Nam được trả tự do. Trong thời gian chưa tìm ra đường về nước, Trần Hiệu và các đồng chí của mình đã tận tình hướng dẫn dân bản địa cách trồng lúa nước, dệt vải bông, tổ chức các hoạt động văn hóa - văn nghệ và làm nhiều việc hữu ích khác như giúp dân chế tác đồ trang sức, đan các loại giỏ xách, gò dụng cụ nhà bếp, sửa chữa đồng hồ, vì vậy mà được nhân dân và chính quyền bản địa rất quý mến.

Tháng 3-1943 quân đồng minh Anh - Pháp gọi Hoàng Đình Giong và Đoàn Ngọc Rê nhập ngũ. Anh em cộng sản liền nhóm họp. Từ nhận định "hổ có về rừng thì mới là hổ", họ quyết định lấy lý do muốn về nước chống phát-xít Nhật để tranh thủ con đường của bọn Anh-Pháp, người đi trước tìm cách kéo theo người còn ở lại. Kết quả là ngày 4-6-1943 Phan Bôi, Tô Gĩ, Nguyễn Văn Phòng được gọi nhập ngũ, tới đầu tháng 9 thì đến Trần Hiệu và 12 người khác. Hầu hết được đưa tới Đại đội 1 thuộc cái gọi là "Quân chí nguyện Đông Dương" của lực lượng Đờ Gôn. Tại đây, Trần Hiệu và các đồng chí của ông đã vừa vận động binh lính người Việt, vừa tìm cách tranh thủ, thuyết phục bọn Pháp để bảo toàn đội ngũ, sớm trở về nước.

Đầu năm 1944 Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Phòng được quân Anh đưa tới Kê-ni-a rồi sang Ấn Độ. Họ gặp lại Phan Bôi, được Phan Bôi cho biết người Anh định dùng họ để thực hiện các chương trình phát thanh ở Xít-ni - Ô-xtrây-li-a, Xan Phran-xít-xcô (Mỹ) và Niu Đê-li (Ấn Độ). Vì biết Anh, Mỹ chống cộng sản và sớm muộn gì cũng sẽ chống Liên Xô nên họ tìm mọi cách thoái thác. Rốt cục, người Anh chuyển họ sang hoạt động tình báo, huấn luyện họ về lý thuyết, cách đánh moóc-xơ và dịch mật mã.

Tháng 3-1945 máy bay B-29 của Anh chở Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Phòng bay từ Đắc-ca qua vịnh Ben-gan, vịnh Thái Lan, biển Đông, vịnh Bắc Bộ vào châu thổ sông Hồng để thực hiện kế hoạch cho họ nhảy dù cùng điện đài xuống khu vực Miếu Môn ở giữa hai tỉnh Hà Đông, Hòa Bình nhưng vì pháo phòng không Nhật bắn lên nhiều, sương mù lại dày đặc nên máy bay phải quay về. Tháng sau, hành trình cũ lặp lại. Lần này, ba người nhảy dù xuống làng Tiên Lữ-huyện Quốc Oai-tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội). Tuy vùng này có quân Nhật chiếm đóng nhưng nhờ được nhân dân che chở, giúp đỡ, họ đã tìm về được nhà Trần Hiệu ở làng Phúc Lâm - huyện Mỹ Đức và chỉ ít ngày sau đã bắt liên lạc được với Xứ ủy Bắc Kỳ. Phó bí thư Xứ ủy Trần Quốc Hoàn dẫn Nguyễn Văn Phòng đi gặp Tổng bí thư Trường Chinh. Tổng bí thư khen ngợi. Trần Hiệu được giao ẩn náu trong một ngôi chùa ở xóm La Dương-xã La Phù-huyện Hoài Đức, với ba nhiệm vụ: giữ liên lạc bình thường với người Anh, thực hiện liên lạc bằng điện đài giữa Xứ ủy và Trung ương, chuẩn bị chương trình để mở lớp huấn luyện về trinh sát quân sự cho Xứ ủy.

Tháng 8-1945, Trần Hiệu tham gia chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Đông và là người đại diện phía cách mạng tiếp nhận sự bàn giao chính quyền từ Tổng đốc Hồ Đắc Điềm. Sau đó ông được cử phụ trách Phòng án chính trị rồi làm Phó giám đốc Sở công an Bắc Bộ. Ông đã tham gia chỉ đạo lực lượng công an trấn áp có hiệu quả bọn phản động tay sai của Tàu Tưởng, kịp thời phát hiện thực dân Pháp âm mưu dựa vào bọn Đại Việt, Quốc dân đảng để bắt gọn Chính phủ ta nhân lễ duyệt binh kỷ niệm ngày quốc khánh 14-7 của chúng. Ông cũng đã tham gia chỉ đạo phá vụ án Ôn Như Hầu, tiêu diệt bọn phản động Đại Việt, Quốc dân đảng ở Thủ đô Hà Nội.

Ngày 20-3-1947, Cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy được thành lập, Trần Hiệu được cử làm Cục trưởng. Ngày 20-1-1948 ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh cử làm Cục trưởng Cục tình báo thuộc Bộ tổng chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam. Tháng 4-1950 Cục tình báo giải thể, ông được cử làm Phó giám đốc Nha công an Việt Nam kiêm Trưởng ty Tình báo-Nha Công an. Ngày 15-7-1951 cơ quan tình báo chiến lược của Đảng và Chính phủ với tên gọi Nha liên lạc thuộc Thủ tướng phủ được thành lập, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bổ nhiệm Giám đốc. Ngày 10-6-1957 Nha liên lạc hợp nhất với Cục quân báo-Bộ Tổng tham mưu thành Cục tình báo-cơ quan tình báo chiến lược toàn diện của Đảng và quân đội, ông lại được bổ nhiệm Cục trưởng.

Năm 1958 ông được phong quân hàm đại tá. Là thủ trưởng đầu tiên và trong 13 năm liên tục, ông đã có đóng góp lớn vào việc xây dựng tổ chức, lực lượng, phát triển hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành tình báo chiến lược. Đặc biệt, thông qua việc mở các hội nghị toàn quốc, hội nghị công tác, tổ chức các lớp bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, ông đã góp phần đào tạo nên một lớp cán bộ tình báo chiến lược vừa hồng vừa chuyên, phát huy được tác dụng trong nhiều năm sau.

Năm 1960, sau Đại hội III của Đảng, Trần Hiệu được bổ nhiệm Phó viện trưởng Viện KSND tối cao. Trên cương vị bí thư Đảng ủy dân-chính-đảng các cơ quan trực thuộc Trung ương, ông đã góp phần quan trọng giúp Ban bí thư Trung ương làm tốt các mặt công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức, kiểm tra... đối với các cơ quan trực thuộc Trung ương, nhất là trong thời kỳ thực hiện Nghị quyết 9 của Bộ Chính trị (khóa III). Năm 1984, khi vừa tròn 70 tuổi, sau 23 năm làm Phó viện trưởng Viện KSND tối cao, ông mới nghỉ hưu. Ông đã được tặng thưởng huân chương Độc lập hạng Nhất và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác.